gợi ý phân tích Chí Khí Anh Hùng

Thảo luận trong 'Văn học lớp 10' bắt đầu bởi thaolovely, 11/4/13.

Loading...
  1. thaolovely

    thaolovely Thành viên BQT

    Từ Hải - người anh hùng có chí khí phi thường (đoạn trích Chí khí anh hùng)

    - Từ Hải là nhân vật được ND gửi gắm nhiều ước mơ, hoài bão,khát vọng nhân văn và cao đẹp.

    - Từ là một người anh hùng cái thế, có chí lớn muốn làm nên sự nghiệp để làm nên tiếng anh hùng "đâu đấy tỏ".
    + Trong toàn truyện Kiều, ND chỉ có một lần dùng từ "Trượng phu"(người đàn ông có chí khí lớn) và chính là được dùng để nói về Từ Hải ở đoạn trích này.
    + Tầm vóc vĩ đại cũng như khát vọng, chí khí lớn lao của người anh hùng được thể hiện qua những thủ pháp miêu tả ước lệ và mang tầm vũ trụ: "động lòng bốn phương", "trời bể mênh mang""bốn bể"...
    + Hình ảnh tư thế người anh hùng hiện lên gắn với hình ảnh "thanh gươm yên ngựa" và được so sánh với chim Bằng (loại chim huyền thoại được dùng để so sánh với chí lớn của nam nhi)...
    + Khao khát về một sự nghiệp lớn: được thể hiện qua hình ảnh mang tính chất ước lệ: "Bao giờ 10 vạn tinh binh - Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường" .Hình ảnh thơ có cả âm thanh, màu sắc, sức mạnh diễn tả khí thế và khát vọng, hoài bão lớn lao của Từ hải.
    + Một trang nam nhi tràn đầy lòng tự tin: tin vào tài năng, sức mạnh của bản thân, tin vào tương lai "Bằng nay bốn biển là nhà" nhưng sẽ có ngày nắm trong tay "mười vạn tinh binh", và ngày đó không phải là xa vời "Đành lòng chờ đó ít lâu - Chầy chăng là một năm sau vội gì".

    - Không chỉ ý thức rõ ràng về tài năng, nghĩa vụ, lí tưởng của mình mà còn quyết tâm thực hiện lí tưởng đó.
    + Từ đã biết vượt qua những níu kéo của tình cảm cá nhân riêng từ, vượt qua thói "nữ nhi thường tình" để sẵn lòng ra đi làm nên nghiệp lớn. Cả một hệ thống Từ ngữ thể hiện sự quyết tâm, dứt khoát đó: "thoắt" , "thẳng rong", "quyết lời", "dứt áo ra đi".
    + Cuộc chia tay Từ Hải - Thúy Kiều khác hẳn với cuộc chia tay giữa Kiều và Kim Trọng cũng như cuộc chia tay Kiều - Thúc Sinh về: tính chất, hoàn cảnh, tâm trạng, thái độ, hành động của người ra đi và người ở lại.

    Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời
    cao đất rộng, không có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang
    sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lòng bốn phương thế là một mình
    dứt áo ra đi, Kiều xin theo không được. Bởi
    vì con người này không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà
    là người của trời đất, của bốn phương.

    Bao nhiêu oan khuất đã chồng chất lên cuộc đời Kiều, tiếng
    kêu trời đã bao lần vút lên vô ích. Bọn gian ác cứ lộng hành, bao nhiêu dơ dáy
    cứ bày ra trước mắt Chưa biết làm thế
    nào để thoát khỏi cảnh đời tù túng thối tha. Yêu cầu của câu chuyện, yêu cầu
    của người đọc chuyện cũng như của mọi người trong xã hội đương thời là phải có
    một cách gì đấy đẻ giải thoát.

    Hình ảnh Từ Hải đã đáp ứng đúng sự khao khát ấy của người
    ta. Nó có giá trị như một giấc mơ tuyệt đẹp.

    Trước hết là một giấc mơ tung hoành cho phỉ sức, phỉ chí.
    Cái khổ của Kiều và của mọi người trong khuôn khổ chật chội của xã hội đương
    thời là tưởng chừng như cựa về bên nào cũng vấp, luôn luôn bị dồn ép, xô đẩy,
    không sao làm chủ được mình. TỪ Hải trái laik, thong dong đi lại đó đây, như
    mây baym, như gió lượn, tưởng chừng như không bị vướng vì một thứ vật cản nào:

    Giang hồ quen thói
    vẫy vùng

    Gươm đàn nửa gánh non
    sông một chèo..

    ...

    Kiều luôn nơm nớp, không dám tin
    ở mình, không dám tin ở tương lai. Từ Hải trái lại, tự tin vô cùng. Ngay trong
    cảnh trần ai, Từ Hải đã ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau
    này như đã nắm chắc trong tay. Mà quả nhiên Từ Hải cứ muốn là được. Thúc Sinh
    muốn đưa Kiều ra khỏi lầu xanh còn phải qua bao nhiêu chật vật. Từ Hải chỉ nói
    một tiếng là xong. Từ Hải hứa với kiều cùng hưởng cảnh muôn chung nghìn tứ, thé
    là có muôn chung nghìn tứ. Từ Hải muốn 10 vạn tinh binh là có 10 vạn tinh binh. Từ Hải hứa báo ân báo
    oán là báo ân báo oán.

    Con người này như một thứ sức mạnh của thiên nhiên , vẫy vùng giữa trời
    cao đất rộng, không có sức gì kiềm giữ được, kể cả sức mạnh của tình yêu. Đang
    sống trong cảnh nồng nàn hương lửa chợt động lòng bốn phương thế là một mình
    dứt áo ra đi, Kiều xin theo không được. Bởi
    vì con người này không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà
    là người của trời đất, của bốn phương.

    .....

    NHưng Từ Hải không phải chỉ thẻ
    hiện giấc mơ tung hoành. Cái khao khát của những lớp người bị áp bức trong thời
    phong kiến không phải chỉ là khao khát tung hoành, khao khát tự do tuyệt đối.
    Một cái khao khát cũng rất khẩn thiết, có khi lại khẩn thiết hơn nữa là khao
    khát CÔNG LÝ. NGười bị oan phải được giải oan. Những người có tội phải đền tội.
    bao nhiêu dơ dáy phải được quét đi.......



    Với Thanh Tâm Tài nhân, Từ Hải
    tuy anh hùng nhưng vẫn là một nhân vật Tiểu thuyết. Với Nguyễn DU, Từ Hải đã
    trở nên một nhân vật anh hùng ca. Nguyễn Du đã bỏ hết những chi tiết có thể
    khiển người ta nghĩ TH cũng là một người như mọi người. Thanh Tâm Tài Nhân muốn
    tô điểm cho Từ Hải đã biến cái nhà sư phá giới của Dư Hoài thành một nhà nho đi
    thi không đỗ, bỏ ra đi buôn. Với Nguyễn Du chúng ta không cần biết TH tung tích
    như thế nào:

    Lần thâu gió mát trăng thanh

    Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi

    Ta chỉ biết TH là một người ở đâu
    xa ngoài kia một hôm đi tới. Từ Hải vụt đến trong đời Kiều như một vì
    sao lạ chiếu sáng cả một đoạn đời, ngoài ra ta không biết gì hơn về lai
    lịch của con người phi thường ấy.

    Trái lại cũng có khi Nguyễn Du
    thêm vào một hai chi tiết, những chi tiết nó biến một con người thường thành
    phi thường. Thanh Tâm Tài Nhân nói Từ Hải ra đi mà không nói đi như thế nào. Nguyễn Du nói rõ:

    Trông vời trời bể mênh mang

    Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

    Qua câu thơ, hình ảnh của con người, thanh
    gươm, yên ngựa tưởng như che đầy cả trời đất.

    .....HÌnh ảnh của Từ Hải, Nguyễn
    Du lấy trong lịch sử, trong văn học TQ, Nhưng Nguyễn Du đã gửi vào đấy tất cả
    những khao khát thiết tha của mình và của người đương thời. NHững khao khát áy
    trong non một thế kỉ đã làm nổ ra liên tiếp những cuộc khởi nghĩa của nông dân
    và cuối cùng đã đưa đến cuộc Khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại...
    Loading...
  2. User

    User True Blue

    Bài tham khảo:

    Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình.Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.

    Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ "thẳng giong" có người giải thích là "vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.

    Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :

    Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
    Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
    Từ Hải đã đáp lại rằng :
    Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
    Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".
    Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự :

    Bao giờ mười vạn tinh binh,
    Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
    Làm cho rõ mặt phi thường,
    Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".
    Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.

    Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :

    Đành lòng chờ đó ít lâu,
    Chầy chăng là một năm sau vội gì !
    Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.

    Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.

    Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :

    Nửa năm hương lửa đương nồng,
    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
    Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
    Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành "diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.

    Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.

    Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.
    Sưu tầm
    thaolovely thích bài này.

Chia sẻ trang này