Lịch Sử 10- BÀI 35:CÁC NƯỚC ĐỂ QUỐC ANH, PHÁP, ĐỨC, MĨ VÀSỰ BÀNH TRƯỚNG THUỘC ĐỊA

Thảo luận trong 'Lịch sử lớp 10' bắt đầu bởi tkt057, 10/8/15.

Loading...
  1. tkt057

    tkt057 Moderator

    Lịch Sử 10- BÀI 35:CÁC NƯỚC ĐỂ QUỐC ANH, PHÁP, ĐỨC, MĨ VÀSỰ BÀNH TRƯỚNG THUỘC ĐỊA​

    [​IMG]

    Lược đồ chủ nghĩa tư bản ( thế kỷ XVI- 1914)



    A. ANH VÀ PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX

    I. Nước Anh

    * Tình hình kinh tế:

    Đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX, nền công nghiệp Anh vẫn đứng đầu thế giới. Sản lượng than của Anh gấp 3 lần Mĩ và Đức; sản lượng gang gấp 4 lần Mĩ và gần 5 lần Đức. Về xuất khẩu kim loại sản lượng của 3 nước Pháp, Đức, Mĩ gộp lại không bằng Anh.

    - Từ cuối thập niên 70, Anh mất dần địa vị độc quyền công nghiệp, mất cả vai trò lũng đoạn thị trường thế giới, bị Mĩ và Đức vượt qua.

    Nguyên nhân của sự giảm sút :

    + Máy móc xuất hiện sớm nên cũ và lạc hậu, việc hiện đại hóa rất tốn kém.

    + Một số lớn tư bản chạy sang thuộc địa, vì ở đây lợi nhuận tư bản đẻ ra nhiều hơn chính quốc. Mặt khác, cướp đoạt thuộc địa có lợi nhiều hơn so với đầu tư cải tạo công nghiệp.

    - Tuy vậy, Anh vẫn chiếm ưu thế về tài chính, xuất cảng tư bản, thương mại, hải quân và thuộc địa.

    - Công nghiệp: Quá trình tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, nhiều tổ chức độc quyền ra đời chi phối toàn bộ đời sống kinh tế nước Anh.( 5 ngân hàng ở khu Xi-ti Luân Đôn nắm 70% số tư bản cả nước.)

    - Nông nghiệp: khủng hoảng trầm trọng, phải nhập khẩu lương thực.

    * Tình hình chính trị:

    - Đối nội :Anh là nước quân chủ lập hiến ,thực hiện chế độ hai Đảng (Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ) thay nhau cầm quyền , bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản ,đàn áp phong trào quần chúng và đẩy mạnh xâm lược thuộc địa.

    - Đối ngoại:

    - Đây là thời kì giai cấp tư sản Anh tăng cường mở hệ thống thuộc địa đặc biệt ở châu Á và châu Phi.

    - Đặc điểm đế quốc Anh: là chủ nghĩa đế quốc thực dân.

    Chủ nghĩa đế quốc Anh tồn tại và phát triển dựa trên sự bóc lột một hệ thống thuộc địa rộng lớn (chiếm 1/4 dân số thế giới) do vậy được mệnh danh là chủ nghĩa đế quốc thực dân "Mặt trời không bao giờ lặn" trên đất nước Anh. ( hệ thống thuộc địa rộng lớn của đế quốc Anh đầu thế kỷ XX trải dài từ Bắc Mĩ, châu Phi, châu Á đến châu Đại Dương.)

    Lê-nin nhận xét: "Nước Anh không chỉ là quê hương của hệ thống công xưởng của chủ nghĩa tư bản, mà còn là thủy tổ của chủ nghĩa đế quốc hiện đại".

    Chủ nghĩa thực dân Anh đã trở thành đặc trưng riêng của chủ nghĩa đế quốc Anh.Việc xuất khẩu tư bản của Anh mang những qui mô to lớn. Nước Anh là một cường quốc thuộc địa chính.



    Đế quốc mà mặt trời không bao giờ lặn : thuộc địa có khắp nơi Niu Di lân, Ô x trây lia , An Độ , Ai Cập, Xu đăng , Nam Phi, Ca na đa …., nên gọi là “Chủ nghĩa đế quốc thực dân” .

    [​IMG]

    Lược đồ hệ thống thuộc địa Anh.

    [​IMG]

    Tranh biếm họa về chủ nghĩa thực dân Anh

    II. Nước Pháp

    * Tình hình kinh tế:

    -Trước 1870, công nghiệp Pháp đứng hàng thứ hai thế giới, cuối thập niên 70 trở đi công nghiệp Pháp bắt đầu chậm lại. tụt xuống hàng thứ tư sau Đức, Mĩ, Anh

    -Nguyên nhân:

    + Kĩ thuật lạc hậu

    + Pháp thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ , mất đất ,phải bồi thường chiến tranh.

    + Nghèo tài nguyên và nhiên liệu, đặc biệt là than đá.

    + Giai cấp tư sản chỉ chú trọng đến xuất cảng tư bản, không chú trọng phát triển công nghiệp trong nước.

    - Sự thâm nhập của phương thức: sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp ở Pháp diễn ra chậm chạp do đất đai bị chia nhỏ, không cho phép sử dụng máy móc và kĩ thuật canh tác mới.

    - Đầu thế kỷ XX quá trình tập trung sản xuất diễn ra trong lĩnh vực công nghiệp, dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền, chi phối nền kinh tế Pháp, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng (chậm hơn các nước khác)

    Đặc điểm nổi bật của các tổ chức độc quyền ở Pháp:

    + Sự tập trung ngân hàng đạt đến mức cao: 5 ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm 2/3 tư bản của các ngân hàng trong cả nước.

    + Khác với Anh tư bản chủ yếu đầu tư vào thuộc địa, còn ở Pháp tư bản phần lớn đưa vốn ra nước ngoài, cho các nước chậm tiến vay với lãi suất lớn.

    - Đặc điểm: Tư bản Pháp phần lớn đưa vốn ra nước ngoài, cho các nước chậm tiến vay với lãi suất lớn. Chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi.

    * Tình hình chính trị:

    + Đối nội

    - Sau cách mạng tháng 9 - 1870, nước Pháp thành lập nền cộng hòa thứ ba, song phái cộng hòa đã sớm chia thành hai nhóm: Ôn hòa và Cấp tiến thay nhau cầm quyền.

    - Đặc điểm của nền cộng hòa là tình trạng thường xuyên khủng hoảng nội các. (Trong vòng 40 năm (1875 - 1914) ở Pháp diễn ra 50 lần thay đổi chính phủ.)

    + Đối ngoại :

    -Pháp tăng cường chạy đua vũ trang để trả mối thù với Đức.

    -Tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc đìa chủ yếu ở khu vực châu Á và châu Phi, hệ thống thuộc địa của Pháp rất rộng lớn, chỉ sau Anh.





    [​IMG]

    Lược đồ hệ thống thuộc địa Pháp

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Tham khảo :

    Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền (Phần I)

    A)Tập Trung Sản Xuất Và Các Tổ Chức Độc Quyền:

    Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
    Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾ tổng số máy hơi nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kĩ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó dễ dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.
    Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
    Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền , các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.
    Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản kí hiệp nghị thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng , thị trường tiêu thụ, kì hạn thanh toán, .v.v…
    Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kì hạn.

    Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
    Tớrớt là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

    Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kĩ thuật. với kiểu liên kết dọc như vậy, một côngxoócxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.

    B) Tư Bàn Tài Chính Và Bọn Sỏ Đầu Tài Chính

    Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình cạnh tranh của các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. khi sản xuất trong các ngành công ngiệp ở mức độ cao, thì trong các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn.
    Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các ngân hàng lớn hơn thích hợp với các điều kiên tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự xác nhập vào các ngân hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh.
    Quá trình này thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

    - Sự suất hiện, phát hiện của các tổ chức độc quền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh toán tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dựa trên địa vị của người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lí của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra.Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn dể chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một số tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
    V.I. Lenin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất ,với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp”.
    Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn bộ xã hội tư bản gọi là bọn đầu xỏ tài chính.
    - Bọn đầu xỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty mẹ”);công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu” cũng bằng cách như thế…
    Nhớ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
    Ngoài “chế dộ tham dự”, bọn dầu xỏ tài chính sử dụng những thủ đoạn như: lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất … để thu đươc lợi nhuận và độc quyền cao.
    - Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu xỏ tài chính thống trị về chình trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu xỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghỉa quân phiệt va nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

    II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

    1/ Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

    Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản

    Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật với bộ máy bạo lực to lớn.

    Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

    2/ Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

    Thứ nhất, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung tư bản càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một sư kế hoạch hóa tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội lực lượng sản xuất đã đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền kinh tế.

    Thứ hai, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản không thể hoặc không muốn kinh doanh đầu tư vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốbn chậm, ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng, GTVT…

    Thứ ba, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với gia cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách xoa dịu những mâu thuẩn đó, như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phá triển phúc lợi xã hội…..

    Thứ tư, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vẫn vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đốt lợi ích với các đối thủ trên thị trường. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế; nhà nước tư sản có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các quan hệ đó.

    3/ Những hình thức chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền

    a/ Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản

    VI Lênin đã từng nhấn mạnh,sự liên minh về nhân sự của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ theo kiểu: Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng. Hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng.

    Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.

    b/ Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước.

    Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của nhà nước và độc quyền kết hợp với nhau trong lĩnh vực kinh tế và nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chổ sở hữu nhà nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư bản tư nhân, hai sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.

    Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau:

    + Xây dựng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách;

    + Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân bằng cách mua lại;

    + Nhà nước mua cổ phiếu của các xí nghiệp tư nhân’

    + Mở rộng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân.

    c/ Sự điều tiết kinh tế của nhà tư bản

    Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có những tác động tích cực và tiêu cực. Bởi vậy, khi nào và ở đâu mà trính độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã vượt quá giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thỉ tất yếu đòi hỏi bổ sung bằng sự điều tiết của nhà nước. Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có những mặt tích cực và tiêu cực. Vì thế hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước đã dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế

    Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc, bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chánh - pháp lý , bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường …và bằng những giải pháp ngắn hạn như chống khủng hoảng tài chính, tiền tệ, lạm phát …

    Tùy theo học thuyết kinh tế được vận dụng, hệ thống điều tiết kinh tế ở mỗi nước có những nét khác nhau: - còn được gọi là “mô hình thể chế kinh tế”-như “mô hình trọng cầu”, “mô hình trọng cung”,”mô hình trọng tiền”….. các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là biểu hiện quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

    Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nảy sinh là một tất yếu kinh tế, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa cao độ của các lực lượng sản xuất trong khuôn khổ chế độ tư bản, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhưng vẫn vấp phải những giới hạn và mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản không vượt qua được.

    III. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY

    1/ Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền

    a/ Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới: sự xuất hiện những công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Với 57.000 công ty mẹ và 500.000 chi nhánh các công ty xuyên quốc gia đang kiểm soát 80% công nghệ mới, 40% nhập khẩu, 60% xuất khẩu, 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài.

    Ví dụ công ty GMC của Mỹ năm 1992 có doanh số 132 tỷ, sử dụng gần 1 triệu lao động, 136 chi nhánh ở hơn 100 nước trên thế giới.

    Mặt khác trong các nước tư bản lớn lại phát triển rất nhiều các công ty vừa và nhỏ. Do, việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật cho phép chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, => hình thành hệ thó6ng gia công, nhất là trong các ngành sản xuất ôtô, máy bay, đồ điện cơ khí…. Bên cạnh đó do ưu thế những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường…..

    b/ Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính.

    Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới. Đặc biệt là các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Thích ứng với sự biến đổi đó, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi đó diễn ra ngay trong quá trình thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tài chính thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp kiểu công - nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng. Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn, phức tạp hơn. Thí dụ: ngân hàng cho tư bản công nghiệp vay vốn và bảo đảm tín dụng cho nó kinh doanh, có lợi cùng hưởng, rủi ro, thất bại cùng chia sẽ. Hoặc ngân hàng mua sắm các phương tiện sản xuất hiện đại, đắt tiền và cho rồi cho các doanh nghiệp thuê gọi là cho thuê tài chính, như máy móc, hệ thống vi tính….

    Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng biến đổi, cổ phiếu mệng giá nhỏ được phát hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng , nhiều tầng lớp dân cư mua cổ phiếu.

    c/ Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyển quốc tế sau chiến tranh, nhưng quy mô, chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới.

    d/ Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày càng tăng bên cạnh xu huớng khu vực hóa nền kinh tế. EU,, NAFTA, ASEAN, APEC….

    e/ Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới.

    Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nfghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện” chiến lược biên giới mềm”, ra sức bành trướng “biên giới kinh tế” rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự phụ thuộc về chính trị vào các cường quốc.

    Tóm lại: dù có nhữ ng biểu hiện mới, CNTB đương đại vẫn là CNTB độc quyền. Những biếu hiện mới đó chỉ là sự phát triển năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà Lênin đã vạch ra từ những năm đầu thế kỷ.

    2/ Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

    a/ Sự điều tiết của nhà nước kết hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh tự do và tính năng động của chủ nghĩa tư bản độc quyền tư nhân.

    Hạn chế sự quan liêu của nhà nước, xác định lại sự trợ cấp của nhà nước, thực hiện tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước với quy mô lớn ở nhiều nước. Điều đó là do nhu cầu tăng khả năng cạnh tranh của các doanh ngiệp trong nền kinh tế quốc dân, do tình trạnh nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ngày nay không chủ trương xóa bỏ khu vực kinh tế nhà nước mà chỉ thu hẹp, duy trì doanh nghiệp nhà nước ở mức độ thích hợp để quản lý kinh tế vĩ mô……..

    b/ Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn với phạm vi rộng hơn

    Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch

    Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát, điều tiết giá cả…..

    Điều tiết quan hệ kinh tế đối, hệ thống tài chính tính dụng quốc tế……

    IV/ Những thành tựu , hậu quả và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
    1/ Những thành tựu chủ nghĩa tư bản đạt được

    - Lực lượng sản xuất phát triển cao nhất hiện nay là ở các nước tư bản phát triển. Các nước này đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Năm nội dung chính của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là : cách mạng vi điện, điện tử khoa học, cách mạng trong lĩnh vực năng lượng, cácch mạng trong lĩnh vực vật liệu mới, cách mạng sinh học, cách mạng trong lĩnh vực công cụ sản xuất ( Robot thế hệ thứ V ).

    Hầu hết các nước tư bản phát triển đã đạt tới trình độ phát triển cao của khoa học và kỹ thuật, nền kinh tế phát triển cao. Vì vậy Mác noí: chủ nghĩa xã hội chỉ thắng lợi khi nó tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.

    - Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã có nhiểu thay đổi:

    + Đa dạng hóa hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước ngày càng gia tăng, sở hữu hỗn hợp là phổ biến.

    + Tổ chức sản xuất mang tính toàn cầu, thể hiện hệ thống tài chính mang tính toàn cầu. Một nước bị khủng hoảng là lan ra khắp thế giới.

    + Quan hệ phân phối có nhiều biến đổi, các nước tư bản hiện nay đã đưa ra được công nghệ phân phối tốt, động viên được mọi nguồn lực phát triển khoa học và kinh tế. Có hai cách phân phối là phân phối theo cơ chế thị trường và phân phối bằng nhà nước, tức là phải có chính sách phân phối, chế độ phân phối gọi chung là công nghệ phân phối. Người giàu là phổ biến, người nghèo là thiểu số, quan hệ chủ tớ thay đổi, quyền con người đuợc đề cao.

    - Kiến thúc thượng tầng: đời sống tinh thần xã hội xuất hiện nhiều thành tựu văn minh mới, bao gồm: tiêu chí về xã hội và giai cấp thay đổi. Đánh giá con người dựa trên trình độ sở hữu và nắm giữ thông tin khoa học và sở hữu trí tuệ đặt lên hàng đầu.

    - Xu hướng đầu tư cho con người được đề cao.

    - Sự tồn tại trong quan niệm và trong thực tế về nhà nước phúc lợi chung.

    Đáng giá chung: Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử: CNTB đã đưa loài người từ xã hội thần dân sang xã hội công dân là một bước tiến của lịch sử.

    Chủ nghĩa tư bản đưa con người đến đỉnh cao của trí tuệ và văn minh. Đến chủ nghĩa tư bản hôm nay, con người mới hạnh phúc nhất. Giúp con người hiểu rõ hơn về xã hội chủ nghĩa văn minh, lí tưởng của nhân loại. Xã hội lý tưởng đó sẽ ra đời từ xã hội tư bản với trình độ cao nhất và văn minh nhất.

    Tuy nhiên, mặt khác CNTB cũng đưa con người xuống vực thẳm của địa ngục

    2. Những hậu quả chủ nghĩa tư bản gây ra

    - Tội ác về chiến tranh và chạy đua vũ khí : Cuộc chiến tranh thế giới lần I (1914-1918) để chia lại thuộc địa của các nước đế quốc đã lôi kéo 38 nước trên thế giới tham gia, huy động 37 triệu quân và đã làm 10 triệu người chết, 20 triệu bị thương, trong đó 20% là dân thường. Chiến tranh thế giới lần 2 (1939- 1945) lúc đầu là cuộc chiến tranh đế quốc, sau đó chuyển thành cuộc chiến tranh chống phát xít đã lôi kéo 72 nước của bốn châu lục tham gia, huy động 110 triệu quân chính quy, làm cho gần 55 triệu người chết, trong đó 50% là thường dân ( Liên xô:22 triệu, Đức 15 triệu, Ba lan: 6 triệu).

    Chiến tranh lạnh do chủ nghĩa đế quốc khởi xướng và diễn ra trong 5 thập kỷ, là thời kỳ căng thẳng, chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử loài người. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, xung đột vũ trang tiếp tục tăng lên. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, bình quân trên thế giới có 4,3 cuộc xung đột vũ trang trong một năm. Tính từ 1975 đến 1998 trên thế giới xảy ra 150 cuộc chiến tranh cục bộ, làm 30 triệu người chết.

    Trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, những mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo phức tạp phát triển.

    - Tội các gây ra sự nghèo khổ, lạc hậu của nhân dân các nước chậm phát triển: Bản tuyên ngôn cuộc họp nhóm 15 tại Giamaica đã vạch rõ: “’do kết quả vòng đàm phán Urugoay về thương mại thế giới; Hoa kỳ thu lợi được 100 tỷ USD, EU thu lợi được 55 tỷ USD và Nhật Bản thu lợi được 45 tỷ USD. Ngược lại hơn 50 nước đang phát triển bị thiệt hại ngang bằng con số ấy. Theo thống kê của LHQ, 48 nước kém phát triểnnnhất thế giới chiếm 10% dân số nhưng chỉ chiếm 0,1% GDP thế giới. Trong khi đó nhóm G7 chỉ chiếm 20% dân số thế giới nhưng chiếm 62,5 GDP thế giới. Năm 1997, 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm 86% GDP, 82 % xuất khẩu hàng hóa, 68 % đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong khi đó, 20% dân số nghèo nhất thế giới chỉ chiếm 1% GDP, 1% XK, 1%FDI.

    Thế giới hiện nay có hơn 830 triệu người thiếu ăn, ngay tại các nước phát triển cũng có đến trên 100 triệu người sống dưới mức nghèo khổ.

    - Tội ác ngay tại các nước tư bản phát triển: thất nghiệp, bạo lực, tệ nạn xã hội…

    - Môi trường thế giới đang bị tàn phá nặng nề.

    Kết luận:

    - Ngày nay cả thế giới đang hướng tới một nền văn minh mới- xã hội cộng sản một cách hiện thực hơn và thực tiễn hơn. Khi nào chủ nghĩa công sản tạo ra được một năng suất lao động lớn hơn năng suất lao động của CNTB hiện nay…

    - CNTB ngày nay còn đang phát triển và có khả năng tự điều chỉnh để phát triển nhưng những mâu thuẫn cơ bản vẫn chưa giải quyết.

    - CNTB hiện tại là sự chuẩn bị đầy đủ nhất về vật chất và tinh thần cho xã hội chủ nghĩa của loài người.

    Các Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “đối với chúng ta, chủ nghĩa công sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa công sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện tại tạo ra”


    Nguồn: sưu tầm


    Đoàn thị Hồng Điệp sưu tầm và biên tập
    Loading...

Chia sẻ trang này