Nguyễn khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế

Thảo luận trong 'Văn học lớp 11' bắt đầu bởi thaolovely, 8/10/13.

Loading...
  1. thaolovely

    thaolovely Thành viên BQT

    Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở hình lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :" Quyên đã gọi hè quang quác quác / Gà từng gáy sáng tẻ tè te ...Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe ", " Bán buôn gió chị với trăng dì"...Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập thò " trong câu thơ thần tình sau :"Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp thập thò hoa". Câu thơ "sắp thập thò hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến. Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập thò hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông : thập thò giữa tình và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập thò giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"...
    Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một tình yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ tình trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ nằm chung với khói mây". Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ 90 của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh :"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?". Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đã đành, mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả, dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa.,.

    Hồn thơ Tú Xương

    Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi. Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà lại dị hợm. Dị hợm vì cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại bang, từ nói năng xì xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa bò.
    Đấy là bọn quan lại tay sai phủ, huyện, tổng đốc, nhưng đông hơn, gặp chan chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xã hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp, ấy là các thứ thông, ký, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy cò. Lớp người này sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.
    Cái bối cảnh xã hội nhố nhăng tủi nhục ấy đã lọt vào tầm cảm hứng của Tú Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xã hội Nam Định cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương. Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay ta đọc mà còn như được chung khóc cười với tác giả.

    Thơ Tú Xương thành một bảo tàng nhan nhản những hiện vật thời cuộc của riêng Nam Định và cũng là của chung điển hình cho cả nước trong cái thời bi phẫn đó. Đạo lý băng ngoại, đồng tiền lên ngôi, chất người xuống giá. Tú Xương ngửa mặt kêu trời cho cái mảnh đất Phố phường tiếp giáp với bờ sông:

    Có đất nào như đất ấy không?
    (…) Nhà kia lỗi phép con khinh bố
    Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
    Keo cú người đâu như *** sắt
    Tham lam miệng thở những hơi đồng
    Tú Xương bi phẫn trong bài thơ Đau mắt:
    Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
    Giương mắt trông chi buổi bạc tình

    Từ bệnh đau mắt đã thành nỗi đau con mắt lúc trông đời. Ông còn đau trong trái tim. Đau khi đêm vắng trong tâm trí nghe vọng tiếng gọi đò trên con sông đã lấp.

    Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
    Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

    Sông Lấp ấy là của Nam Định, nhưng tiếng gọi đò thì đã thành tiếng gọi hồn sông núi của con dân cả nước. Cái giật mình Tú Xương là cái giật mình thân phận của cả một dân tộc.

    Tú Xương là nhà thơ đặc sắc của toàn dân, của mọi địa phương. Các thế hệ học trò đều học và nhớ thơ ông.

    Trong các nhà thơ viết bằng thứ chữ vuông tượng hình, ông là người đầu tiên và cũng là cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Ông đã mang được chất liệu, lẫn cảm xúc hiện đại của thế kỷ XX vào các câu thơ được gọi là cổ điển.

    Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn cùng thời với ông, sinh trước ông 35 năm và mất sau ông hai năm, tài thơ cũng cao, nhưng không giàu chất sống hiện thực bằng ông, không đủ gay gắt việc đời như ông. Nguyễn Khuyến là ông đại khoa không có được cái cay đắng Trần Tế Xương, hay chữ mà lều chõng đến tám khoa, từ 1885 đến 1906, chỉ được cái tú tài.
    Loading...

Chia sẻ trang này