Phương pháp điều trị thoái hóa khớp đúng cách?

Thảo luận trong '.:: Bài viết đối tác ::.' bắt đầu bởi User, 25/3/14.

Loading...
  1. User

    User True Blue

    Thoái hóa khớp là căn bệnh mãn tính, gây thoái hóa và biến dạng khớp. Có rất nhiều nguyên nhân gây thoái hóa khớp cũng như phương pháp điều trị riêng biệt cho chúng. Bạn đã biết chưa?

    Thoái hoá khớp có thể nguyên phát hoặc thứ phát.
    Thoái hoá khớp
    nguyên phát do lão hoá của mô khớp, hoặc do sụn khớp được tưới máu và nuôi dưỡng kém,… dẫn đến mất tính đàn hồi và khô cứng. Khi hoạt động, sụn chạm vào đầu xương, gây hoại tử ở nơi chịu áp lực mạnh nhất. Bệnh này chỉ gặp ở người trên 40 tuổi.

    Khác với thoái hoá khớp nguyên phát, thoái hoá khớp thứ phát thường do sự lão hoá sớm của sụn khớp, xuất hiện sau chấn thương làm tổn thương diện khớp, hoặc từ những chấn thương nhỏ nhưng tác động nhiều lần, khớp hoạt động quá tải; do di chứng của viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm đa khớp dạng thấp…

    Tổn thương ở khớp bắt đầu từ những hoại tử của sụn khớp, sau đó là sự phá huỷ hệ thống trượt ở những vùng tỳ đè của xương dưới dạng một dải xơ và đường viền xung quanh khớp, các gai xương ở ngoại vi khớp. Bao hoạt dịch dày lên, hình thành những đường vân, có thể sụn hoá. Sụn hoá của bao hoạt dịch rơi vào ổ khớp gây cản trở cho hoạt động của khớp. Các xơ co kéo gây nên tình trạng cứng khớp.

    Bệnh thoái hoá khớp nguyên phát hay gặp ở người 40-50 tuổi, và ở phụ nữ sau khi mãn kinh, nhưng điều nguy hiểm là thoái hoá khớp hầu như không có triệu chứng. Các dấu hiệu chỉ xuất hiện khi xương và hệ thống bao khớp hoạt dịch bị tổn thương thực sự. Bệnh thường khởi đầu âm ỉ, tiến triển chậm với những giai đoạn được cải thiện theo cảm nhận chủ quan. Thể điển hình, người bệnh đau khớp vào buổi sáng, sau khi ngủ dậy; đau giảm sau khi khớp được hoạt động và hết đau khi nghỉ ngơi. Khớp không sưng và không có các dấu hiệu toàn thân.

    Chẩn đoán thoái hoá khớp dựa vào những yếu tố, như: Đau khớp tăng khi hoạt động và giảm khi nghỉ ngơi; không có triệu chứng toàn thân như sốt…; những dấu hiệu viêm tại chỗ rất ít hoặc không có; dịch ổ khớp không có biểu hiện viêm, không có mủ; chụp Xquang thấy hẹp khớp, ăn mòn diện khớp…

    Điều trị?

    Thoái hoá khớp có thể điều trị bằng hai phương pháp:
    - Điều trị nội khoa: Ở giai đoạn đau khớp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi, tránh tất cả những hoạt động gây đau. Dùng vật lý trị liệu để làm tăng tưới máu tại chỗ cho khớp.

    Trong giai đoạn đau khớp cấp, bất động khớp, thậm chí bó bột là điều rất cần thiết (chỉ nên bất động trong thời gian ngắn để tránh cứng khớp). Ngay sau khi hết đau cấp, phải tập vận động khớp nhẹ nhàng, phù hợp.

    Để dự phòng những tư thế xấu (khớp gối vẹo vào trong hoặc quay ra ngoài), hoặc để giảm đau, có thể sử dụng các loại: Băng, nịt, nẹp, khung đỡ,… hay đơn giản như là một chiếc gậy, một chiếc nạng nếu bị hư khớp chi dưới. Sử dụng thuốc, những thuốc cơ bản là thuốc chống viêm giảm đau, như aspirin và thuốc không có steroid (ibuprofen, diclofenac, indometacin…). Những thuốc an thần, đặc biệt nhóm diazepam có thể sử dụng trong trường hợp đau do co cơ, hoặc người bệnh quá lo lắng, nhưng không được dùng dài ngày vì dễ gây nghiện.

    - Điều trị ngoại khoa: Có ba loại phẫu thuật được áp dụng: Đó là, phẫu thuật dự phòng nhằm lập lại tình trạng bình thường các khớp có nguy cơ bị thoái hoá như trật khớp háng bẩm sinh, tiêu chỏm xương, nhuyễn sụn xương bánh chè, lệch trục đầu gối…; Phẫu thuật bảo tồn khi khớp chưa bị hư hỏng nặng, có thể sửa chữa đưa về điều kiện cơ học của chức năng bình thường; Và phẫu thuật thay thế trong trường hợp khớp quá hư hỏng, không thể phục hồi được, có thể thay thế từng phần, thậm chí toàn bộ khớp bằng khớp nhân tạo.

    Loading...

Chia sẻ trang này